Lịch ngày mai là một thuật ngữ đơn giản dùng để chỉ ngày tiếp theo sau ngày hiện tại. Nó thường được sử dụng để biểu thị thời gian và sự sắp xếp các hoạt động, sự kiện hoặc công việc trong ngày tiếp theo. Lịch ngày mai thường được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày để lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động cá nhân, công việc và các sự kiện. Nó cung cấp một cách để nhìn trước và chuẩn bị cho những gì sẽ xảy ra vào ngày tiếp theo.
Lịch ngày mai là một thuật ngữ đơn giản dùng để chỉ ngày tiếp theo sau ngày hiện tại. Nó thường được sử dụng để biểu thị thời gian và sự sắp xếp các hoạt động, sự kiện hoặc công việc trong ngày tiếp theo. Lịch ngày mai thường được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày để lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động cá nhân, công việc và các sự kiện. Nó cung cấp một cách để nhìn trước và chuẩn bị cho những gì sẽ xảy ra vào ngày tiếp theo.
Năm nhuận là năm có 13 tháng thay vì 12 tháng như các năm thông thường. Vì sao vậy?
Âm lịch thực ra về bản chất là Âm dương lịch. Âm lịch gốc chỉ có 12 tháng / 1 năm. Mỗi tháng có từ 29 ngày (tháng thiếu) đến 30 ngày (tháng đủ). Do vậy nếu trong 1 năm đủ 12 tháng, Âm lịch chỉ có 354-355 ngày. Trong khi lịch dương mỗi năm có 365 ngày, tức là Dương lịch dài hơn âm lịch 11-12 ngày. Do vậy để Âm lịch khớp với dương lịch, 2-3 năm người ta lại thêm 1 tháng nhuận vào
Sau khi dùng múi giờ khác múi giờ Trung Quốc, Lịch sử ghi nhận Việt Nam và Trung Quốc đã ăn Tết Nguyên Đán lệch nhau vào các năm 1968, 1969, 1985 và năm 2007. Cá biệt năm 1985, hai nước đón Tết cách nhau 1 năm.
Tại sao lại có hiện tượng ăn Tết Nguyên Đán lệch ngày như vậy?
Từ năm 1967, Việt Nam bắt đầu sử dụng múi giờ GMT +7, Trong khi Trung Quốc là múi giờ GMT +8. Do vậy 2 nước lệch nhau 1 giờ.
Cứ mỗi 23 năm, số giờ chênh lệch cộng dồn thành 1 ngày. Do đó, một số tháng của lịch âm Việt Nam chênh nhau 1 ngày so với Trung Quốc, hình thành lên chu kỳ 23 năm sẽ có 1 lần Tết Âm lịch chênh nhau.
Như vậy, năm 2030 và 2053, Việt Nam sẽ ăn Tết sớm hơn Trung Quốc.
Với những cách tính bù năm nhuận khác nhau, có thể hai nước có thể ăn Tết Nguyên đán cách nhau 1 tháng như năm 1985.
Để xem lịch âm và lịch âm hôm nay, có một số phương pháp bạn có thể sử dụng:
Ứng dụng di động: Có nhiều ứng dụng di động miễn phí và trả phí cung cấp lịch âm lịch. Tìm kiếm "lịch âm" hoặc "lịch âm lịch" trên cửa hàng ứng dụng trên điện thoại di động của bạn và tải xuống một ứng dụng phù hợp. Các ứng dụng này thường cung cấp thông tin về ngày âm lịch hiện tại và các sự kiện quan trọng trong lịch âm.
Trang web trực tuyến: Có nhiều trang web cung cấp thông tin lịch âm lịch miễn phí. Bạn có thể tìm kiếm "lịch âm" hoặc "lịch âm lịch" trên công cụ tìm kiếm và truy cập vào một trang web đáng tin cậy để xem lịch âm ngày hôm nay.
Sách và nguồn tài liệu: Nếu bạn có một cuốn sách hoặc nguồn tài liệu về lịch âm lịch, bạn có thể tra cứu ngày hôm nay trong đó. Sách lịch âm thường cung cấp thông tin về các ngày âm lịch, các ngày lễ và sự kiện quan trọng.
Lịch xuất hiện từ rất lâu đời trong lịch sử của con người, ngay từ khi con người bắt đầu quan tâm và theo dõi thời gian. Trong các nền văn hóa cổ đại, như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ và Trung Quốc, các nhà khoa học và các nhà thiên văn học đã phát triển các hệ thống lịch khác nhau để giúp họ theo dõi các sự kiện thiên văn và các sự kiện quan trọng khác trên trái đất.
Ví dụ, lịch La Mã được phát triển vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên và dựa trên hệ thống lịch của người Etruscan. Lịch La Mã gồm 10 tháng ban đầu và có thời gian kéo dài từ mùa xuân đến mùa đông. Sau đó, Julius Caesar đã tạo ra lịch Julius và lịch Gregorian để thay thế lịch La Mã, với 12 tháng trong một năm và các ngày thêm vào hoặc bớt đi để giữ cho lịch đồng bộ với chu kỳ Mặt Trời.
Lịch Trung Quốc cổ đại cũng được phát triển vào khoảng thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên và dựa trên các quan sát thiên văn. Lịch Trung Quốc bao gồm các ngày âm lịch và dương lịch và được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, nông nghiệp và thương mại.
Tóm lại, lịch xuất hiện từ rất lâu đời và đã được phát triển và hoàn thiện theo thời gian. Hiện nay, các hệ thống lịch khác nhau đang được sử dụng trên toàn thế giới để giúp con người theo dõi thời gian và các sự kiện quan trọng trong cuộc sống.
Ngoài ra còn các kiểu bói theo sự kiện xảy trong ngày như:
Trong 1000 năm Bắc thuộc cho tới năm 1054, tức thời vua Lý Thái Tông, nước ta sử dụng chung lịch với lịch của Trung Hoa.
Kể từ sau năm 1054, khi vua Lý Thánh tông đã lên ngôi, có tư liệu cho rằng nước ta đã bắt đầu tự soạn lịch riêng, dựa theo các phép lịch bên Trung Hoa.
Từ năm 1407, khi bị nhà Minh đô hộ, nước ta đã chuyển sang dùng lịch cùng với nhà Minh, mãi cho đến thời vua Gia Long, năm 1812.
Từ 1813 - 1945, khi Pháp cai trị nước ta, họ đã lập ra bảng đối chiếu lịch Dương với lịch Âm dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhà Nguyễn vẫn tự soạn và ban lịch riêng theo phép lịch thời Hiến (giống như nhà Thanh) ở Trung Kỳ.
Từ 1946 – 1967, Việt Nam không tự biên soạn Lịch nữa, các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ 1968 – nay, sau khi trải qua nhiều lần thay đổi múi giờ, giờ chính thức của Việt Nam được công bố tính theo múi giờ số 7, trong khi đó, Trung Quốc lại tính theo múi giờ số 8, vì thế, Việt Nam tiếp tục tự biên soạn lịch riêng cho tới nay.
Pha của Mặt trăng (còn gọi là Tuần trăng) là phần sáng bề mặt của mặt Mặt trăng được chiếu sáng bởi Mặt trời khi quan sát từ Trái đất. Các pha của Mặt trăng thay đổi một chiều trong tuần hoàn toàn khi Mặt trăng quay quanh Trái đất, tùy thuộc vào sự thay đổi vị trí đối tượng của ba thiên thể Trái đất, Mặt trăng, Mặt trời.
Tháng Âm lịch bắt đầu gọi là ngày “Trăng mới” tức là Pha mặt Trăng bị khuyết (che khuất) hoàn toàn.
Đến ngày Rằm, pha của mặt trăng là tròn, là sáng nhất.
Lưu ý: Mỗi loại lịch âm có thể có những cách tính khác nhau, có loại loại lịch âm thì tính từ ngày (trăng lưỡi liềm hiện ra)
Lịch âm hay âm lịch được cho là lịch cổ nhất được phát minh bởi loài người. Những người Cro-Magnon được coi là đã phát minh ra âm lịch vào khoảng 32.000 năm trước Công nguyên.
Thế giới có nhiều loại lịch khác nhau, nhưng hiện nay có 3 loại được sử dụng phổ biến nhất là: lịch dương, lịch âm và lịch âm dương:
Lịch dương là loại lịch được tính toán dựa trên chu kỳ quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Trong tiếng Hán, Mặt Trời còn được gọi là Thái Dương. Vì thế, dương lịch còn được gọi là lịch Thái Dương (hay Thái Dương lịch).
Dương lịch này chia một năm thành 12 tháng, ứng với 365 ngày. Ngoài ra còn có các năm nhuận tức là thêm 1 ngày vào cuối tháng 2 để thành 366 ngày/1 năm. Cách tính năm nhuận như sau:
Cứ 4 năm lại có 1 năm nhuận. Năm nhuận là năm chia hết cho 4, riêng những năm có 2 số cuối là 00 như 2000, 1600 thì phải chia hết cho 400.
Lịch dương đang được chính thức ứng dụng ở hầu hết các nước trên thế giới, chủ yếu là các nước phương Tây.
Lịch âm là loại lịch được tính theo chu kỳ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Mặt Trăng tiếng Hán còn gọi là Thái Âm, vì thế và âm lịch còn có tên gọi khác là Thái Âm lịch (hay lịch Thái Âm).
Âm lịch cũng chia 1 năm có 12 tháng, mỗi tháng có 29-30 ngày, tức là mỗi năm có 354 - 355 ngày. Những ngày đầu của tháng ứng với trăng khuyết hoàn toàn (Một số lịch ứng với trăng lưỡi liềm)
Tuy nhiên, do những giới hạn của nó, hiện nay lịch âm thuần túy nhất trên thực tế chỉ còn các nước Hồi giáo sử dụng.
Âm dương lịch là loại lịch được tính căn cứ theo cả chuyển động của Mặt Trăng và chuyển động biểu kiến của Mặt Trời, tức nó bao gồm cả lịch âm và lịch dương.
Lịch âm dương kết hợp giữa Âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí được tính theo dương lịch.
Do có sự kết hợp như vậy nên Lịch âm dương có thể cho ta tính toán được nhiều yếu tố như thời tiết, thủy triều… Điều này rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt các ngành như hàng hải, ngư nghiệp, khai thác muối...
Ngoài ra, lịch âm dương còn để tính các ngày rằm, mùng 1, các lễ hội trọng đại trong 1 năm. Với những quốc gia chịu sự tín ngưỡng của Phong thủy phương đông, Lịch âm dương còn đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét ngày tốt xấu để tiến hành các việc lớn như: cưới xin, khai trương, xây nhà, động thổ, xuất hành…
Lịch âm dương được dùng phổ biến tại các nước chịu ảnh hưởng của Văn hóa Trung Hoa như: Việt Nam, Trung Quốc, Singapo, Hàn Quốc, Triều tiên…