Trung Tâm Chính Trị Thành Phố Bến Tre

Trung Tâm Chính Trị Thành Phố Bến Tre

Trung tâm Ngoại Ngữ Thành phố Bến Tre? Bến Tre, với vẻ đẹp bình yên của những cánh đồng xanh và hệ thống kênh rạch trải dài, không chỉ nổi tiếng với nghề trồng dừa mà còn là nơi phát triển sôi động của lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ. Các trung tâm ngoại ngữ tại Bến Tre đang ngày càng thu hút sự chú ý của học viên với những chương trình học phong phú và cơ sở vật chất hiện đại.

Trung tâm Ngoại Ngữ Thành phố Bến Tre? Bến Tre, với vẻ đẹp bình yên của những cánh đồng xanh và hệ thống kênh rạch trải dài, không chỉ nổi tiếng với nghề trồng dừa mà còn là nơi phát triển sôi động của lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ. Các trung tâm ngoại ngữ tại Bến Tre đang ngày càng thu hút sự chú ý của học viên với những chương trình học phong phú và cơ sở vật chất hiện đại.

Trung tâm Ngoại Ngữ Thành phố Bến Tre: Anh Ngữ Planet – An Hội

48, Hai Bà Trưng, phường An Hội, Thành phố Bến Tre, Bến Tre

Giới Thiệu Chung Trung Tâm Anh Ngữ Planet – An Hội

Trung Tâm Anh Ngữ Planet – An Hội nổi bật không chỉ với chương trình giảng dạy tiếng Anh chất lượng mà còn với những khóa luyện thi IELTS được thiết kế đặc biệt. Đây là điểm đến lý tưởng cho những ai mong muốn nâng cao khả năng tiếng Anh và chuẩn bị cho các kỳ thi quốc tế.

Điểm mạnh của Trung Tâm Anh Ngữ Planet – An Hội:

Trung Tâm Anh Ngữ Planet – An Hội cam kết mang đến cho học viên một môi trường học tập chất lượng với các khóa học và dịch vụ hỗ trợ tốt nhất. Với những thế mạnh nổi bật, trung tâm là lựa chọn tuyệt vời cho những ai muốn cải thiện kỹ năng tiếng Anh và đạt được thành công trong các kỳ thi quốc tế như IELTS.

Các cấp độ của chương trình luyện thi IELTS tại trung tâm bao gồm:

Planet là trung tâm tiếng Anh tiên phong trong việc áp dụng phương pháp Callan giúp học viên phát triển đồng thời 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết và ghi nhớ bài học ngay tại lớp, có thể ứng dụng ngay kiến ​​thức đã học vào giao tiếp với tần suất cao, từ đó tạo phản xạ tự nhiên cho người học trong giao tiếp với người nước ngoài.

Ngoài ra, Planet còn đưa phương pháp luyện nghe Study Wise vào chương trình học và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Học viên theo học tại đây còn được tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa thú vị và bổ ích tại trường. Các lớp học ngoại khóa miễn phí thường xuyên được mở hàng tuần như lớp Nghe, lớp Nói, lớp Bài hát tiếng Anh…

Hệ thống Trung tâm Ngoại ngữ và Toán trí tuệ Uni Star – Long Thới

Long Thới, Huyện Chợ Lách, Bến Tre

Giới Thiệu Chung Hệ Thống Trung Tâm Ngoại Ngữ và Toán Trí Tuệ Uni Star – Long Thới

Hệ thống Trung Tâm Ngoại Ngữ và Toán Trí Tuệ Uni Star tại Long Thới, huyện Chợ Lách, Bến Tre là một đơn vị giáo dục nổi bật, chuyên cung cấp các chương trình đào tạo chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Với mục tiêu mang đến sự phát triển toàn diện cho học viên, trung tâm đã thiết lập một mô hình giáo dục đa dạng và toàn diện, đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển cá nhân của học sinh từ nhiều lứa tuổi.

Hệ thống Trung Tâm Ngoại Ngữ và Toán Trí Tuệ Uni Star không chỉ cung cấp các khóa học chất lượng mà còn chú trọng đến việc xây dựng môi trường học tập tích cực và hỗ trợ, giúp học viên đạt được thành công trong học tập và phát triển cá nhân. Với đội ngũ giáo viên tận tâm và cơ sở vật chất hiện đại, trung tâm cam kết mang đến những trải nghiệm học tập tốt nhất cho mọi học viên.

Trung Tâm Ngoại Ngữ Zela Bến Tre – An Hội

91A, đường 30/4, phường An Hội, Thành phố Bến Tre, Bến Tre

Giới thiệu chung về Zela Bến Tre – Trung tâm ngoại ngữ An Hội

Trung tâm ngoại ngữ Zela luôn thiết kế chương trình học phù hợp để đảm bảo học viên đạt kết quả tốt nhất trong kỳ thi. Ngoài ra, Zela còn là trung tâm luyện thi uy tín cho kỳ thi ESOL của Đại học Cambridge. Đặc biệt, Trung tâm luôn đồng hành cùng học viên trong suốt kỳ thi.

Đội ngũ giáo viên giỏi, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình sẽ mang đến cho học viên những khóa học tiếng Anh chất lượng cao và hiệu quả. Với phương pháp giảng dạy hiện đại, chú trọng thực hành và rèn luyện kỹ năng. Giúp học viên có nhiều cơ hội thực hành giao tiếp thực tế và hoàn thiện kỹ năng ngôn ngữ của mình.

Ngoài ra, đội ngũ giáo viên nước ngoài tại Zela đều là chuyên gia đến từ các nước nói tiếng Anh (Native English speaking Countries), và có nhiều năm kinh nghiệm trong các kỳ thi tiếng Anh của Đại học Cambridge như: Starters, Movers, KET, PET, FCE, sẽ đảm bảo học viên vượt qua kỳ thi với kết quả tốt nhất.

Với những ưu điểm trên, Trung tâm ngoại ngữ Zela xứng đáng nằm trong top trung tâm học tiếng Anh tại Bến Tre.

Cơ Sở Vật Chất và Tiện Ích Dịch Vụ của Trung Tâm Ngoại Ngữ Zela Bến Tre – An Hội

Trung Tâm Ngoại Ngữ Zela Bến Tre – An Hội cam kết cung cấp một môi trường học tập chất lượng cao với cơ sở vật chất hiện đại, dịch vụ tiện ích tối ưu và đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, nhằm giúp học viên phát triển toàn diện kỹ năng ngôn ngữ của mình.

Tổng Kết Lợi Ích Của Các Trung Tâm Ngoại Ngữ Tại Khu Vực Bến Tre

Khu vực Bến Tre hiện đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ, với nhiều trung tâm chất lượng cung cấp các dịch vụ học tập đa dạng. Những trung tâm này không chỉ mang đến cơ hội học tập tiếng Anh và các ngoại ngữ khác mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển cá nhân và nghề nghiệp của học viên.

Các trung tâm ngoại ngữ tại Bến Tre như Trung Tâm Ngoại Ngữ Cambridge (CB Centres), Trung Tâm Ngoại Ngữ KOKONO, và Trung Tâm Ngoại Ngữ Zela , …. đều cung cấp các chương trình đào tạo đa dạng từ tiếng Anh cơ bản đến nâng cao, luyện thi IELTS, và các ngôn ngữ khác như Nhật, Hàn, và Trung. Các chương trình học được thiết kế để phù hợp với từng độ tuổi và trình độ, giúp học viên dễ dàng tiếp cận và cải thiện kỹ năng ngôn ngữ của mình.

Các trung tâm ngoại ngữ ở Bến Tre đều chú trọng đầu tư vào cơ sở vật chất hiện đại, từ các phòng học được trang bị máy chiếu, bảng thông minh, đến thư viện với tài liệu học tập phong phú. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập mà còn giúp học viên cảm thấy thoải mái và hứng thú hơn khi tham gia các buổi học.

Với các phương pháp giảng dạy tiên tiến, như phương pháp học tương tác và giảng dạy theo nhu cầu cá nhân, các trung tâm tại Bến Tre giúp học viên nhanh chóng nắm bắt kiến thức và cải thiện kỹ năng. Những phương pháp này không chỉ giúp học viên tiếp thu bài học một cách hiệu quả mà còn khuyến khích sự tham gia tích cực và phát triển tư duy phản biện.

Một điểm nổi bật của các trung tâm là đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm và chuyên môn cao. Họ không chỉ có kỹ năng giảng dạy xuất sắc mà còn tận tâm hỗ trợ học viên, giúp họ vượt qua các khó khăn trong quá trình học tập và đạt được mục tiêu cá nhân.

Các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn học tập, hỗ trợ kỹ thuật, và các khóa học đặc biệt là những lợi ích quan trọng mà các trung tâm mang đến. Những dịch vụ này giúp học viên có thêm thông tin và sự trợ giúp cần thiết để đạt được kết quả tốt nhất trong học tập.

Ngoài việc học ngoại ngữ, các trung tâm còn tổ chức các hoạt động ngoại khóa, dã ngoại, và các chương trình trao đổi văn hóa, giúp học viên phát triển toàn diện và mở rộng tầm nhìn. Những hoạt động này không chỉ làm phong phú thêm trải nghiệm học tập mà còn giúp học viên xây dựng kỹ năng mềm và tăng cường khả năng giao tiếp.

Kết Luận: Những lợi ích mà các trung tâm ngoại ngữ tại Bến Tre mang lại không chỉ giúp học viên cải thiện kỹ năng ngôn ngữ mà còn góp phần vào sự phát triển cá nhân và nghề nghiệp của họ. Với cơ sở vật chất hiện đại, phương pháp giảng dạy hiệu quả, và đội ngũ giáo viên chất lượng cao, các trung tâm này đang đóng góp tích cực vào việc nâng cao trình độ học vấn và mở rộng cơ hội nghề nghiệp cho cộng đồng học viên tại địa phương.

V.I.Lênin, tên thật là Vlađimia Ilích Ulianốp (Vladimir Ilits Ulianov), sinh ngày 22-4-1870, ở Simbirsk (nay là Ulianovsk), trong một gia đình trí thức tiến bộ. Ông mất ngày 21-1-1924, tại làng Gorki, Mátxcơva, thi hài được đặt tại lăng ở Quảng trường Đỏ, Mátxcơva. Ông được tạp chí Time (Mỹ) bình chọn là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX.

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình V.I. Lênin đã có những đóng góp lớn lao cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đấu tranh cho hòa bình, độc lập, tự do của các dân tộc. Là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất đồng thời là nhà lý luận cách mạng thiên tài, V.I. Lênin  đã dày công nghiên cứu, sáng tạo nên học thuyết về chủ nghĩa đế quốc, về cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người đã để lại cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị.

Khi phân tích về chủ nghĩa đế quốc V.I.Lênin rút ra những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc như sau:

* Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Xuất phát từ lĩnh vực sản xuất của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin  đã đưa ra nhận xét có ý nghĩa quyết định để vạch ra nguyên nhân phát sinh và bản chất của chủ nghĩa tư bản trong bước phát triển mới “Sự phát triển của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất vào trong các xí nghiệp ngày càng to lớn, là một trong những đặc điểm tiêu biểu nhất của chủ nghĩa tư bản” (1). Để minh chứng, Lênin đã dùng số liệu về tình hình sản xuất trong công nghiệp ở Đức và Mỹ, hai nước tư bản phát triển lúc đó.

Tập trung sản xuất có nghĩa là sự tập trung sản xuất vào những xí nghiệp lớn hình thành những xí nghiệp khổng lồ, đây là kết quả của quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Tập trung sản xuất phát triển đến mức độ nhất định sẽ dẫn đến độc quyền “Do đó, ta thấy rõ rằng khi phát triển đến mức độ nhất định, thì có thể nói, sự tập trung tự nó sẽ dẫn thẳng đến độc quyền.” (2). Chính cạnh tranh dẫn đến độc quyền, đây là một trong những hiện tượng quan trọng nhất trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại “Sự cạnh tranh biến thành độc quyền, đó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.” (3). Mặt khác, cạnh tranh biến thành độc quyền sẽ thúc đẩy xã hội hóa sản xuất phát triển kể cả quá trình phát minh và cải tiến kỹ thuật “Cạnh tranh biến thành độc quyền. Kết quả là việc xã hội hóa sản xuất tiến một bước lớn. Trong đó cả quá trình phát minh và cải tiến kỹ thuật cũng được xã hội hóa.”(4)

Lênin đã chứng minh sự ra đời và thống trị của độc quyền trên cơ sở tập trung sản xuất cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; đó là bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đồng thời,  Lênin đã phân tích các tổ chức độc quyền tồn tại phổ biến trong các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao đó là các – ten (cartel), xanh – đi – ca (syndicat), tơ – rớt (trust), công – xooc – xi – om (consortium).

Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền ngày nay được biểu hiện dưới những hình thức như:

+ Trước đây tập trung sản xuất dẫn đến hình thức liên hợp hóa theo ngành dọc và ngành ngang và hình thành những tổ chức độc quyền chuyên ngành hẹp. Ngày nay, tập trung sản xuất dẫn đến hình thức liên hợp hóa mới là đa dạng hóa sản xuất, tức là một đơn vị kinh tế sản xuất những sản phẩm thuộc nhiều ngành khác nhau. Trên cơ sở tập trung sản suất, hình thành những công – gờ - lô – mê – ra …, một hình thức tổ chức độc quyền nhiều xí nghiệp và cơ sở kinh doanh thuộc nhiều ngành khác nhau, không có mối liên hệ về sản xuất, kỹ thuật và tiêu thụ, chỉ có mối liên hệ duy nhất là đặt dưới sự kiểm soát chung về tài chính.

+ Sự hình thành và phát triển các công ty xuyên quốc gia, công ty nhiều quốc gia. Công ty nhiều quốc gia là những công ty độc quyền hoạt động trên thị trường quốc tế, do hợp nhất tư bản của những tổ chức độc quyền nhiều quốc gia khác nhau.

+ Sự tăng cường chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Sự hình thành và phát triển của CNTB độc quyền nhà nước là do tập trung sản xuất phát triển cao, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh nền kinh tế từ một trung tâm.

Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền diễn ra trong lĩnh vực sản xuất từ đó dẫn đến tập trung và độc quyền trong lưu thông. Trong lưu thông ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội, vì nó nắm tư bản tiền tệ. Do đó “Độc quyền, đó là đỉnh tột cùng của “giai đoạn mới nhất trong sự phát triển của CNTB”. Nhưng những quan niệm của chúng ta về sức mạnh thực tế và ý nghĩa của các tổ chức độc quyền hiện đại sẽ hết sức thiếu sót, hết sức không đầy đủ và không đúng mức, nếu chúng ta không tính đến vai trò của các ngân hàng.”(5)

* Các ngân hàng và vai trò mới của chúng

Ngân hàng làm trung gian trong việc trả tiền, biến tư bản tiền tệ không hoạt động thành tư bản tiền tệ hoạt động, đem lại lợi nhuận cho giai cấp các nhà tư bản sử dụng “Công việc cơ bản và thoạt đầu của các ngân hàng là làm trung gian trong việc trả tiền. Nhờ thế, các ngân hàng biến tư bản tiền tệ không hoạt động thành tư bản hoạt động, nghĩa là tư bản đem lại lợi nhuận, và tập hợp mọi khoản thu nhập bằng tiền để cho giai cấp các nhà tư bản sử dụng.” (6)

Qua hoạt động của các ngân hàng từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lênin nhận xét: “Công việc kinh doanh ngân hàng càng phát triển và càng tập trung vào một số ít cơ quan, thì từ chỗ đóng vai trò khiêm tốn của những kẻ trung gian, các ngân hàng đã trở những tổ chức độc quyền vạn năng, sử dụng được hầu hết tổng số tiền của toàn thể các nhà tư bản và tiểu chủ, cũng như phần lớn những tư liệu sản xuất và những nguồn nguyên liệu của một nước nhất định hay của cả một loạt nước.” (7)

Như vậy, trong lĩnh vực ngân hàng cũng có quá trình tập trung và dẫn đến độc quyền trong ngân hàng. Sự tập trung của ngành ngân hàng được thể hiện ở chỗ:

+ Số lượng tiền trong các ngân hàng lớn tăng lên, trong khi đó các ngân hàng nhỏ giảm xuống.

+ Các ngân hàng nhỏ lại bị các ngân hàng lớn lấn át, thôn tính trở thành ngân hàng “phụ thuộc”, đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của sự tập trung TBCN hiện đại.

Sự “phụ thuộc” đó được thực hiện trực tiếp và cả gián tiếp thông qua những ngân hàng khác bằng chế độ tham dự. Lênin đã chứng minh bằng một tập đoàn ngân hàng ở Đức, đây là một trong những tập đoàn lớn hơn tất cả các tập đoàn ngân hàng ở Đức, tham dự bậc nhất vào 30 ngân hàng, bậc hai 14 ngân hàng, mà 14 ngân hàng tham dự vào 48 ngân hàng khác, bậc ba vào 6 ngân hàng, 6 ngân hàng tham dự vào 9 ngân hàng khác. Sự tập trung của ngành ngân hàng thể hiện ở chỗ mạng lưới ngân hàng bao trùm cả nước, tập trung hết thảy tư bản và các khoản thu nhập bằng tiền; biến hàng nghìn, hàng vạn doanh nghiệp tản mạn, thành một đơn vị kinh tế TBCN thống nhất toàn quốc, rồi sau đó trở thành một đơn vị kinh tế TBCN thế giới.

Từ phân tích, Lênin kết luận “Dù sao thì trong hết thảy các nước TBCN, mặc dù luật ngân hàng ở các nước đó có những biến thể như thế nào đi nữa, các ngân hàng vẫn tăng cường và đẩy nhanh gấp bội quá trình tập trung tư bản và quá trình hình thành các tổ chức độc quyền.” (8)

* Tư bản tài chính và bọn đầu sở tài chính

Để xác định bản chất của tư bản tài chính, Lênin bắt đầu bằng phê phán định nghĩa của R. Hilferding (người đầu tiên dùng khái niệm tư bản tài chính).

Theo R. Hilferding, tư bản tài chính là tư bản dưới dạng tiền – qua đó trên thực tế đã biến thành tư bản công nghiệp, tư bản tài chính là tư bản do ngân hàng chi phối và do các nhà công nghiệp sử dụng.

Theo Lênin, định nghĩa này chưa đầy đủ vì nó không chỉ rõ một trong những yếu tố quan trọng nhất, cụ thể là sự tập trung sản xuất và tư bản đã phát triển mạnh đến nỗi đang và đã dẫn đến độc quyền. Lênin đã đưa ra khái niệm về tư bản tài chính “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp.” (9)

Như vậy, sự tập trung sản xuất dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền trong lĩnh vực sản xuất, từ độc quyền trong sản xuất dẫn đến độc quyền trong ngân hàng và sự thống trị của một bọn đầu sỏ tài chính. Sự thống trị của bọn đầu sỏ tài chính được thiết lập bằng chế độ tham dự.

Khi nghiên cứu về tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính, Lênin chú trọng đến việc xuất khẩu tư bản “Cần phải đặc biệt xét đến vai trò của việc xuất khẩu tư bản trong việc thành lập ra mạng lưới lệ thuộc và liên hệ quốc tế của tư bản tài chính.” (10)

Lênin đã chỉ ra tính tất yếu của việc xuất khẩu tư bản khi độc quyền và tư bản tài chính thống trị trong các nước TBCN phát triển. Việc xuất khẩu tư bản xuất phát từ:

+ Chủ nghĩa tư bản là nền sản xuất hàng hóa ở mức độ phát triển cao nhất khi mà chính ngay sức lao động cũng trở thành hàng hóa. Sự phát triển của trao đổi ở trong nước, và đặc biệt là trên quốc tế, là một đặc điểm tiêu biểu của CNTB. Mặt khác, sự phát triển không đều của ngành công nghiệp đòi hỏi cần phải có một nguồn nguyên liệu dẫn đến việc xuất khẩu tư bản.

+ Tình trạng “tư bản thừa” xuất hiện rất nhiều trong các nước tiên tiến.

Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của CNTB và thúc đẩy hết sức nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được đầu tư. Mặt khác, xuất khẩu tư bản làm cho CNTB phát triển rộng và sâu thêm trên toàn thế giới.

* Việc phân chia thế giới giữa các liên minh của bọn tư bản

Xuất khẩu tư bản là hậu quả tất yếu của mâu thuẫn trong quá trình tích lũy tư bản, đồng thời cũng là biện pháp để giải quyết mâu thuẫn đó. Nhưng tác dụng đó lại làm cho mâu thuẫn đó thêm sâu sắc và làm cơ sở dẫn tới việc phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền. Vì vậy, Lênin kết luận “Nói theo nghĩa bóng thì các nước xuất khẩu tư bản đã chia nhau thế giới. Nhưng tư bản tài chính thì cũng đã dẫn đến chỗ trực tiếp phân chia thế giới.” (11)

Dưới chế độ TBCN, chủ nghĩa tư bản đã gắn liền thị trường trong nước với thị trường bên ngoài, nên tạo ra thị trường toàn thế giới. Do việc xuất khẩu tư bản tăng lên, và những quan hệ với nước ngoài và các thuộc địa, cũng như những khu vực ảnh hưởng của các liên minh độc quyền lớn nhất được hết sức mở rộng, nên đưa đến sự thỏa thuận quốc tế giữa các liên minh này, đưa đến sự hình thành những tổ chức độc quyền quốc tế. Đó là mức độ mới nhất của việc tập trung tư bản và tập trung sản xuất trên toàn thế giới.

Thực chất của việc phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền là sự phân chia thế giới về kinh tế. Nguyên nhân của việc phân chia lại thế giới là quy luật phát triển không đều của CNTB, dẫn đến sự thay đổi tương quan lực lượng giữa các thành viên của liên minh độc quyền, hình thành liên minh độc quyền quốc tế.

Sự phân chia thế giới về kinh tế tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các cường quốc đế quốc chủ nghĩa nhằm phân chia thế giới về lãnh thổ.

* Sự phân chia thế giới giữa các đại cường quốc

Sự thống trị của độc quyền TBCN tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới về kinh tế đồng thời dẫn đến sự phân chia thế giới về chính trị “Thời đại CNTB hiện đại chỉ cho ta thấy rằng giữa các liên minh của bọn tư bản, những quan hệ nhất định đã được xác lập trên cơ sở phân chia thế giới về kinh tế; song song với tình hình đó và gắn liền với tình hình đó thì giữa các liên minh chính trị, giữa các nước, những quan hệ nhất định cũng được xác lập trên cơ sở phân chia thế giới về lãnh thổ, tranh giành thuộc địa, tranh giành lãnh thổ kinh tế.” (12)

CNTB phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa ngày càng quyết liệt hơn. Chỉ có việc chiếm được thuộc địa mới đảm bảo cho các tổ chức độc quyền đối phó có hiệu quả với mọi trường hợp bất trắc trong cuộc cạnh tranh với đối thủ của mình.

Khi phân tích đặc điểm này Lênin chỉ ra lợi ích của việc xuất khẩu tư bản cũng đưa tới sự xâm chiếm thuộc địa “Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản cũng thúc đẩy sự xâm chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa mới dễ dàng loại trừ được kẻ cạnh tranh bằng những thủ đoạn độc quyền, mới dễ dàng nắm được việc cung cấp hàng hoá…” (13)

Sự tranh giành thuộc địa giữa các đại cường quốc dẫn đến 2 cuộc chiến tranh thế giới, đó là chiến tranh thế giới lần thứ nhất  (1914 – 1918) và chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945).

Ngày nay, xu hướng hòa bình phát triển đã trở thành xu hướng cơ bản của thời đại nên sự phân chia thế giới giữa các đại cường quốc vẫn còn tiếp diễn nhưng dưới hình thức mới, chúng không thể tiếp tục gây chiến tranh đế quốc như trước đây. Tuy nhiên, chiến tranh khu vực, sắc tộc, tôn giáo…đang diễn ra trong đó có sự tham gia trực tiếp của các thế lực đế quốc.

Từ phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc, Lênin rút ra kết luận:

+ Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới một mức độ phát triển cao khiến nó tạo ra những tổ chức độc quyền có một vai trò quyết định trong sinh hoạt kinh tế;

+ Sự hợp nhất tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp, và trên cơ sở tư bản tài chính đó, xuất hiện một bọn đầu sỏ tài chính;

+ Việc xuất khẩu tư bản, khác với việc xuất khẩu hàng hóa, đã có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt;

+ Sự  hình thành những liên minh độc quyền quốc tế của bọn tư bản chia nhau thế giới;

+ Các cường quốc TBCN lớn nhất đã chia nhau xong đất đai trên thế giới./.

_______________________________________

[1]. Lênin toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980, tr.396.[2], [3]: Sđd, tr.398.[4], [5], [6], [7], [8], [9]: Sđd, tr.408, 415, 416, 424, 489.[10], [11]: Sđd, tr.455, 462.[12]: Sđd tr.472-473.[13]: Sđd, tr.484.

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một chuyên ngành của khoa học lịch sử, trong những năm qua, cùng với xu thế chung tiến hành đổi mới công tác giáo dục lý luận, trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng đã tích cực đổi mới cả về nội dung và phương pháp cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Đặc biệt là vận dụng linh hoạt phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích vừa đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn, tạo nên sự hứng thú cho người học, người nghe.

Phương pháp lịch sử  trong nghiên cứu lịch sử Đảng là phương pháp dựa trên những tư liệu, cứ liệu lịch sử Đảng, trình bày quá trình phát sinh, vận động, biến đổi và phát triển của hiện thực lịch sử Đảng với tất cả sự phong phú, đa dạng, ngẫu nhiên từ khi Đảng ra đời, hoạt động lãnh đạo đến nay

Phương pháp lôgích trong nghiên cứu lịch sử Đảng là phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa từ lịch sử nói chung và lịch sử Đảng nói riêng, là sự phản ánh lịch sử trong toàn bộ những mối liên hệ và quan hệ cơ bản vào ý thức con người. Từ sự khái quát đó để đi đến nhận thức đúng bản chất của hiện tượng, sự kiện lịch sử, có được những kết luận có giá trị khoa học.

Trong nghiên cứu, và giảng dạy phần Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt giai đoạn 1930-1945 với bài ”Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền” thì phương pháp lôgích và phương pháp lịch sử cần vận dụng đúng đắn, nhuần nhuyễn, nhằm đảm bảo gắn lý luận với thực tiễn sẽ làm cho bài giảng thêm sinh động, tạo sự hứng thú cho người học.

Phương pháp lịch sử là phải làm rõ hoàn cảnh, đặc điểm lịch sử của cách mạng Việt Nam những năm 1930-1945; quá trình phát triển Cương lĩnh, đường lối, chính sách lớn của Đảng nhằm giải quyết những mâu thuẫn cơ bản của xã hội; sự lđạo, tổ chức thực tiễn của Đảng để hiện thực hóa đường lối, thực hiện mục tiêu giành độc lập, giành chính quyền qua các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 và cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; sự lãnh đạo đó gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, phát triển và sáng tạo các hình thức, phương pháp đấu tranh, gắn liền với quá trình xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là hiện thực vô cùng phong phú của lịch sử toàn Đảng từ trung ương đến các địa phương các lĩnh vực hoạt động do Đảng lãnh đạo cần được tái hiện sinh động, trung thực.

Còn phương pháp lôgích là tổng kết, khái quát hóa làm rõ những kinh nghiệm, bài học chủ yếu, những vấn đề mang tính quy luật, lý luận của 15 năm đấu tranh cách mạng. Làm rõ sự kết hợp đúng đắn mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giữa dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân. Kinh nghiệm về xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, đoàn kết lực lượng và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; về kết hợp và phát triển sáng tạo các hình thức tổ chức cách mạng, các hình thức và phương pháp đấu tranh; về quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa giành chính quyền, tình thế và thời cơ cách mạng; về kết hợp ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh của dân tộc với cơ hội thuận lợi từ bên ngoài; về sự kết hợp chiến lược với sách lược, bản lĩnh chính trị và vai trò lãnh đạo, trách nhiệm chính trị của Đảng và những vấn đề về xây dựng Đảng... Với những tổng kết, khái quát đó, phương pháp lôgích đã nêu bật được bản chất của hiện thực lịch sử, giá trị thực tiễn và lý luận của một thời kỳ đấu tranh oanh liệt, vẻ vang của Đảng và dân tộc.

Tuy nhiên, trong thực tế có một số trường hợp vận dụng phương pháp lôgích một cách máy móc, lấy phương pháp lôgích thay thế cho phương pháp lịch sử, tìm cách cắt xén lịch sử hoặc tô đậm lịch sử những nét mà lịch sử không có hoặc là có ít, như khi trình bày Cao trào cách mạng 1930-1931, người giảng quá nặng nghiên cứu về chủ trương của Đảng, mà thiếu hẳn hoặc trình bày rất ít phong trào sôi động của quần chúng được hướng dẫn bởi đường lối đó, làm cho bài giảng quá coi trọng lý luận, tính khái quát, tính tổng kết mà bỏ qua việc nghiên cứu những sự kiện lịch sử cụ thể, khái quát lý luận thiếu căn cứ, những quy luật, phạm trù không có nội dung lịch sử, khiến bài giảng xơ cứng, giáo điều, khô khan, thiếu tính thuyết phục.

Hay người giảng sử dụng phương pháp lịch sử đơn thuần, tách rời phương pháp lịch sử với phương pháp lôgích, như gai đoạn 1939-1945, không đi sâu vào những chủ trương đánh dấu bước hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc của Đảng ta, mà chỉ về trình bày diễn biến các phong trào sẽ làm cho bài giảng nặng về miêu tả sự kiện, thiếu những đánh giá khái quát, những kết luận có giá trị khoa học, làm cho người học khó nhận ra bản chất, quy luận vận động của lịch sử nói chung, lịch sử Đảng nói riêng.

Vì vậy, trong nghiên cứu và trong giảng dạy Lịch sử Đảng cần kết hợp đúng đắn phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích. Người dạy sử dụng phương pháp lịch sử phải chú trọng đến tư duy lôgích, khái quát và khi sử dụng phương pháp lôgích phải luôn luôn tư duy từ hiện thực lịch sử, coi trọng tri thức lịch sử. Nếu chỉ dừng lại ở phương pháp lịch sử, mô tả diễn biến lịch sử thì không thể nhận biết được bản chất của hiện thực, nhưng nếu không dựa trên hiện thực lịch sử phong phú, đa dạng đã sử dụng phương pháp lôgích, khái quát, kết luận vội vã sẽ dẫn đến nhận thức chủ quan, không phù hợp với hiện thực.

Vận dụng đúng đắn phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích vào việc nghiên cứu lịch sử nói chung và lịch sử Đảng nói riêng là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, đòi hỏi người dạy phải nỗ lực, dày công trau dồi tư tưởng và phương pháp học thuật, nắm vững lý luận, đồng thời phải biết kết hợp với các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, quy nạp, so sánh…  tuỳ theo từng nội dung và mục đích của từng bài nghiên cứu và của đối tượng mà vận dụng phương pháp này hay phương pháp khác ở mức độ nặng nhẹ khác nhau cho thích hợp. Đặc biệt, nhằm phát huy tính tích cực của cả người dạy và người học, trong giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta cần chú ý một số vấn đề sau:

Một là, phải có lập trường, quan điểm, tư tưởng vững vàng, kiên định với đường lối của Đảng, có năng lực nắm bắt và thông hiểu các quy luật vận động của Triết học, Kinh tế chính trị học và các khoa học luận khác.

Hai là, có sự nhạy cảm về chính trị và thời cuộc để kểt hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Trong giảng dạy phải khôi phục được bức tranh chân thực của lịch sử đã diễn ra, trình bày những sự kiện cơ bản, từ đó hình thành khái niệm để đi sâu bản chất, rút ra bài học kinh nghiệm và quy luật lịch sử. Chẳng hạn, quá trình hoạt động của Đảng từ năm 1930 cho đến nay rất phong phú, nhưng vấn đề trung tâm là phải làm nổi bật lịch sử lãnh đạo và đấu tranh của Đảng bằng những sự kiện có tính bước ngoặt, trong từng thời kì lịch sử nhất định, từ đó làm sáng tỏ tính đặc thù của Đảng, và quy luật lãnh đạo của Đảng trong cách mạng Việt Nam.

Ba là, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc của phương pháp lịch sử là tôn trọng thực tiễn khác quan, không chỉ trình bày những thành công, thắng lợi của Đảng, của cách mạng, mà phải trình bày cả những thiếu sót, hạn chế, không thành công trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, như đã diễn ra trong lịch sử. Chính từ sự thật lịch sử đó, rút ra những tổng kết kinh nghiệm quý giá cho sự lãnh đạo của Đảng trong hiện tại và tương lai.

Bốn là, trình bày những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng phải xác định đúng những giá trị, hiểu rõ bước phát triển trên từng vấn đề của nghị quyết trong từng thời kì nhất định, từ đó hệ thống hoá và phân tích ý nghĩa, tác dụng của đường lối, chủ trương của Đảng. Bên cạnh đó, cần chú trọng quá trình tổ chức thực hiện của các cấp và phong trào cách mạng của quần chúng để làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tóm lại, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích trong nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là hai mặt biểu hiện của phương pháp biện chứng mác xít. Vì vậy, người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy phải nắm vững những nguyên tắc, quan điểm phương pháp luận mác xít mới hoàn thành trọng trách của mình góp phần tích cực vào việc đổi mới cả về nội dung và phương pháp nghiên cứu cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới./.

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, Đảng ta khẳng định: Công nông là gốc của cách mạng, trí thức, học trò, nhà buôn là bầu bạn của cách mạng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, cụm từ liên minh công nông một lần nữa được khẳng định trong nghị quyết của Đại hội. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH cụm từ liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức được Đảng ta khẳng định một lần nữa.Đặc biệt tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng năm 2006, Đảng ta khẳng định: Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó chính là sức mạnh của dân tộc nhằm kết hợp với sức mạnh của thời đại chớp lấy thời cơ và vận hội, đẩy lùi nguy cơ và thách thức vững bước tiến trên con đường đi lên CNXH. Đồng thời còn là sự biểu hiện nhất quán về việc vận dụng sáng tạo và phát triển một cách khoa học quan điểm liên minh giai cấp của V.I.Lênin vào thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam. Có được những quan điểm cụ thể ấy chính là nhờ vào sự kế thừa, vận dụng một cách sáng tạo của V.I.Lênin người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới trong quá trình phát triển một cách toàn diện chủ nghĩa Mác mà đặc biệt là tư tưởng của C.Mác về liên minh giai cấp trong điều kiện thời đại đã thay đổi (giai đoạn chủ nghĩa đế quốc).Trong tình hình thực tế xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay việc khẳng định những cống hiến vĩ đại ấy của V.I.Lênin đối với lịch sử nhân loại và cũng nhằm khẳng định chân lý bất diệt của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với thời đại ngày nay. Đặc biệt là tư tưởng liên minh giai cấp vẫn còn sống mãi với nhân loại đang trong quá trình đấu tranh cho mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, góp phần đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi những nguy cơ mang tính chất toàn cầu.Từ thực tế tình hình cách mạng Châu Âu, C.Mác đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chủ nghĩa tư bản trong điều kiện tự do cạnh tranh từ đó cống hiến cho nhân loại những phát minh vĩ đại bằng học thuyết của mình từ lý luận về “hình thái kinh tế - xã hội” đến học thuyết “giá trị thặng dư”; đặc biệt tháng 02 năm 1848 với sự ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cuốn sách gối đầu giường đối với những người cộng sản. Một mặt, vạch trần bản chất bóc lột của giai cấp tư sản, mặt khác khẳng định sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản mà lực lượng làm nên lịch sử ấy không ai khác hơn là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.Tuy nhiên, khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với “người bạn đồng minh tự nhiên” của mình là giai cấp nông dân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Cách mạng vô sản là bài đồng ca của hai giai cấp công nhân và nông dân. Nếu không có bài đồng ca này thì bài đơn ca ở các quốc gia nông dân sẽ là bài ai điếu. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và các cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành “bài ca ai điếu”. Điều đó đã lý giải một cách khoa học về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề liên minh công nông trong cuộc cách mạng vô sản.Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác một cách khoa học phù hợp với tình hình thực tế trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) với phương châm: “Cho tôi một tổ chức, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga” nhằm“ Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”.Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Đặc biệt đối với các nước thuộc địa, tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”.Liên minh công - nông - trí trong giai đoạn giành chính quyền, hay ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I.Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.)”.Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là động lực chủ yếu của các cuộc cách mạng nói chung đặc biệt là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở các quốc gia nông dân những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hầu hết là những nước thuộc địa, nông dân là lực lượng dân cư đông đảo nhất; lực lượng lao động dồi giàu nhất; lực lượng cách mạng hùng hậu nhất. Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất chủ yếu của xã hội, nông thôn là địa bàn cư trú rộng lớn nhất của nông dân. Tuy nhiên, người nông dân lại phải chịu một cổ hai ba tròng dưới sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân, đế quốc, phát xít, phong kiến địa chủ khát khao giành quyền tự do, độc lập.Do đặc điểm và bản chất hai mặt của giai cấp mình mà nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Lực lượng công nhân thì mới ra đời lại hạn chế về số lượng chính vì thế, giai cấcp công nhân muốn thực hiện thắng lợi vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình tất yếu phải liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác tạo thành động lực cách mạng to lớn.Nước Nga trước cách mạng Tháng 10 năm 1917 cũng không ngoài xu thế ấy. Nông dân Nga vẫn là giai cấp chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề nhất dưới sự thống trị của chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản Nga. Nắm bắt được tình hình thực tế ấy, V.I.Lênin đã nhận thức được sự tương quan lực lượng trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản Tháng 2 năm 1917, giai cấp vô sản Nga chưa thật sự lớn mạnh, Đảng Bôn-sê-vích chưa liên kết, liên minh rộng rãi với nông dân. Nga hoàng mặc dù đã bị lật đổ nhưng lại tồn tại song song hai chính quyền: Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản Nga và Xô viết các đại biểu công nhân và binh lính.Quá trình chuyển biến từ cuộc cách mạng dân chủ tư sản Tháng 2 năm 1917 đến cuộc cách mạng Tháng 10 Nga 1917 là quá trình mà V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích đã tổ chức liên kết, liên minh rộng rãi với nông dân làm nên động lực cách mạng to lớn. Khi đã “Cho tôi một tổ chức, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga” tổ chức đó chính là Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo công, nông, binh. Bằng cách “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng” đã chứng minh sự vận dụng, phát triển sáng tạo của V.I.Lênin về vai trò của liên minh công - nông có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự thành bại của cách mạng.Quá trình thực hiện cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, sự thắng lợi to lớn của Hồng quân Liên xô trước phát xít Đức và Nhật bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội và cứu nhân loại khỏi thảm họa diệt vong thành quả to lớn ấy thuộc về liên minh công - nông  dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích mà đứng đầu là V.I.Lênin lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản Nga nói riêng cũng như giai cấp vô sản toàn thế giới nói chung.Liên minh công - nông - trí trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân là điều tất yếu. V.I.Lênin đặc biệt lưu ý khối liên minh công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Qua khối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, V.I.Lênin chỉ rõ: Nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp.V.I.Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức, không chỉ trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”.Những tư tưởng của V.I.Lênin về liên minh công nông trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội  được thể hiện trong chính sách kinh tế mới, Thuế lương thực.

Chính sách kinh tế mới (NEP), Thuế lương thực mở ra một hướng cho tất cả các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu không trải qua các chế độ tư bản chủ nghĩa; một hình mẫu mới cho sự kết hợp những quy luật chung với những đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước và trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. NEP một kiểu mẫu cho việc giải quyết những vấn đề cơ bản nhất, thiết yếu nhất trong thực tiễn, sinh động của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. NEP thể hiện sự sáng tạo mang tính khoa học và cách mạng, một thái độ nghiêm túc và phương pháp mẫu mực cho việc vận dụng sáng tạo của học thuyết Mác vào thực tiễn cụ thể của nước Nga, và với NEP một triển vọng mới đầy tính khả thi trên con đường đưa chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn, biến chủ nghĩa xã hội từ lý luận thành thực tiễn đã được mở ra không chỉ ở nước Nga mà trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có nước ta hiện nay đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội.V.I.Lênin đã luận chứng tính tất yếu của liên minh công - nông mà trước hết là liên minh về kinh tế, coi đó là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế chính trị xã hội ở nước Nga lúc bấy giờ, Người khẳng định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp và đấu tranh giai cấp, mà một thực tế là đang xuất hiện giai cấp và những tầng lớp xã hội mới. Trong hoàn cảnh như vậy phải củng cố liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tồn tại cho sự vững mạnh của chính quyền nhà nước vô sản. Một trong những nhân tố quyết định của mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, cũng như các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước ta.V.I.Lênin chỉ ra rằng nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản, trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chũ nghĩa xã hội là thiết lập liên minh kinh tế giữa giai cấp công nhân và nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Thực chất của liên minh kinh tế là thực hiện mục đích chính trị là duy trì chuyên chính vô sản, nhằm thủ tiêu chế độ cũ, từng bước xây dựng một xã hội mới, tiến tới xây dựng một xã hội không còn giai cấp, không còn nạn người bóc lột người. NEP thể hiện quan điểm xuyên suốt đó. V.I.Lênin đã chỉ rõ thời kỳ khi có bước chuyển nhiệm vụ từ thời chiến sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vấn đề liên minh công - nông từ lĩnh vực chính trị, quân sự sang lĩnh vực kinh tế.Vì vậy, luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin bắt đầu từ nông dân, nông nghiệp nông thôn là vấn đề trọng tâm của chính sách kinh tế mới được thể hiện bằng hai chính sách mật thiết với nhau là: Chính sách thuế lương thực và khôi phục phát triển sản xuất hàng hoá nông nghiệp thông qua chính sách trao đổi hàng hoá, quan hệ trao đổi hàng hoá - tiền tệ.Tại sao V.I.Lênin đưa vấn đề liên minh công - nông trên cơ sở chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề trọng tâm trong toàn bộ chiến lược của Lênin và cách mạng chủ nghĩa xã hội ở một nước như nước Nga?

Một là, V.I.Lênin xuất phát từ đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội ở nước Nga. Trên cơ sở phân tích, so sánh lực lượng giai cấp và tình hình thực tế của nước Nga, V.I.Lênin đã chỉ rõ: Dùng những biện pháp cần thiết cương quyết nhất là đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa. Nhằm cải thiện đời sống của nông dân và công nhân, cung cấp nguyên liệu để phục hồi và phát triển công nghiệp, trên cơ sở đó mà tác động trở lại đối với nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển.

Hai là, phát triển lực lượng sản xuất và củng cố liên minh Công - nông, củng cố nhà nước chuyên chính vô sản phải thay đổi chính sách trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thuế lương thực. V.I.Lênin chỉ rõ: Giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp lãnh đạo thống trị phải biết hướng chính sách vào việc giải quyết trước tiên những vấn đề cấp thiết hiện nay, là dùng những biện pháp có thể phục hồi ngay lực lượng sản xuất của nền kinh tế tiểu nông. Chỉ bằng con đường ấy chúng ta mới cải thiện đời sống của công nhân, tăng cường liên minh công - nông củng cố chuyên chính vô sản.

Ba là, khôi phục phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá tiền tệ giữa giai cấp công nhân và nông dân trên cơ sở lợi ích kinh tế. Người đã luận chứng cho tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá, sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông tự do buôn bán kinh doanh, tự do trao đổi hàng hoá phải đặt lên hàng đầu để củng cố liên minh công nông, cải thiện đời sống của nhân dân là đòn xeo chủ yếu của NEP.Theo V.I.Lênin thông qua trao đổi tự do hoá trao đổi nghĩa là thương mại hoá quan hệ trao đổi luơng thực dụa trên quan hệ hàng hoá - tiền tệ, nhằm phá vỡ nền nông nghiệp gia trưởng phân tán manh mún, đưa nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, thực hiện phân công và phân công lại lao động xã hội trong nông nghiệp, đưa nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, vừa phát triển chuyên môn hoá sản xuất ngày càng rộng càng sâu.Bốn là, khuyến khích các thành phần tham gia vào sản xuất và trao đổi trong lĩnh vực nông nghiệp. Kích thích phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn, thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển, hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại.

Năm là, trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tạo những tiền đề cần thiết để phục vụ công nghiệp, tổ chức lại sản xuất trong các ngành công nghiệp theo hướng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, trong đó công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn. V.I.Lênin chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản chỉ khi nào chủ nghĩa xã hội có được một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy chúng ta phải xây dựng cho được một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chính chủ nghĩa xã hội “Hãy để người nông dân tự suy nghĩ trên luống cày của mình”. Có như vậy mới giúp đỡ được nông dân, củng cố được liên minh công nông và là sức mạnh vô địch của chuyên chính vô sản.

Sáu là, kết hợp củng cố liên minh công nông với củng cố phong trào hợp tác xã, nhằm tạo ra những bước quá độ dẫn dắt nông dân đi vào con đường sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.Theo V.I.Lênin, chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa. Do tính chất đó, chế độ hợp tác xã văn minh đòi hỏi tính tự nguyện và lợi ích kinh tế. Chế độ đó hoàn toàn đối lập với cơ chế mệnh lệnh quan liêu hành chính bao cấp. Quá trình hợp tác hoá chỉ phát triển hợp quy luật trên nền kinh tế hàng hoá. Phải tôn trọng bước đi tuần tự, không chủ quan nóng vội đốt cháy giai đoạn, phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ, thông qua hợp tác xã văn minh, giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng hỗ trợ dẫn dắt nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội.Bảy là, củng cố liên minh công nông trước hết phải nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ. Vì vậy, phải không ngừng củng cố đội tiền phong của giai cấp vô sản, làm cho nó trở thành người đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức, quyền lợi của cả dân tộc.Thiết nghĩ, thời đại đã có nhiều biến đổi song tư tưởng liên minh công nông của V.I.Lênin trong chính sách kinh tế mới, Thuế lương thực vẫn còn nguyên ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước nông nghiệp mà nước ta hiện nay là một điển hình.Liên minh công - nông - trí đối với cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện đấu tranh giành độc lập dân tộc của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta đã thực hiện tốt liên minh công - nông - trí làm động lực to lớn của cách mạng Việt Nam. Từ việc thực hiện mục tiêu cách mạng độc lập dân tộc, người cày có ruộng đến cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện làm nên chiến thắng lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu, rồi Đồng Khởi 1960 làm tiền đề, nền tảng động lực đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào giải phóng Miền nam thống nhất đất nước cả nước bước vào kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới như mục tiêu Đảng ta đã đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức trên cả phương diện kinh tế - kỹ thuật và chính trị - xã hội.Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể nhân dân nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức. Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục tiêu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, các giai cấp tầng lớp không được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên minh vững mạnh.Liên minh phải được Đảng Cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công -  nông - trí thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.Nhờ sự lãnh đạo của Đảng, họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích, niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thời kỳ quá độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là điều kiện chính trị - xã hội để liên minh công - nông - trí thức ngày càng bền chặt hơn.Đặc biệt, liên minh công - nông - trí thức còn là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức mà cụ thể là thông qua mô hình bốn nhà.Tóm lại, khi liên minh công - nông - trí thức được thiết lập, củng cố trên cơ sở các điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cho sự quản lý của Nhà nước. Để tập hợp lực lượng rộng rãi quần chúng nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân cũng phải lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng, làm nòng cốt. Đúng như đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định: Chỉ có đi với giai cấp công nhân thì nông dân mới được giải phóng, có liên minh công nông là có tất cả. Có liên minh công - nông - trí thức cũng là điều kịên bảo đảm sự ổn định chính trị cho công cuộc đổi mới, cải cách của chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Từ cách mạng Tháng 10 Nga 1917 đến nay hơn 94 năm đã trôi qua, lịch sử đã trải qua những bước thăng trầm, biến động, thời đại ngày nay đã có những biểu hiện mới đan xen những thời cơ và vận hội, nguy cơ và thách thức nhưng những giá trị lịch sử của tư tưởng liên minh công-nông-trí của V.I.Lênin vẫn còn giữ nguyên tính khoa học và cách mạng, tính lý luận và thực tiễn của nó mãi mãi sẽ là động lực của tất cả các cuộc cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng liên minh giai cấp của V.I.Lênin vẫn mãi mãi là chân lý bất diệt của chủ nghĩa xã hội khoa học cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã vận dụng một cách sáng tạo và phát triển một cách khoa học tư tưởng Liên minh giai cấp của V.I.Lênin phù hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã minh chứng một cách thuyết phục cho tư tưởng V.I.Lênin về liên minh giai cấp trong điều kiện bối cảnh tình hình của thời đại ngày nay.

Trong giai đoạn hiện nay đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020 về cơ bản nước ta có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển thì liên minh công-nông-trí của V.I.Lênin là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sức mạnh của toàn dân tộc.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, sự nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện nay, việc phát huy vai trò liên minh công-nông-trí là vấn đề chiến lược nhằm khai thác mọi tiềm năng và thế mạnh của ba lực lượng trên ba lĩnh vực, thực hiện thắng lợi mô hình nông thôn mới ở mỗi địa phương.